1. Giá trị nhân đạo là gì?
Giá trị nhân văn là gì? Khái niệm giá trị nhân đạo là gì? Biểu hiện của giá trị
nhân văn là gì? Giá trị nhân văn chính là thước đo giá trị văn học của mọi thời
đại, nó được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau trong tác phẩm. Để làm rõ
giá trị nhân văn là gì và những biểu hiện của nó
2. Giá trị nhân đạo vợ nhặt
Các bạn hãy nêu và phân tích giá
trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt nhằm giúp người đọc hiểu
hơn về tấm lòng đồng cảm, sự thương xót, trân trọng của Kim Lân dành cho những
số phận con người nghèo khổ trong truyện.
Bài văn mẫu Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt
Bài làm
Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn
Tài, người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết
không nhiều, nhưng được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của
văn học Việt Nam hiện đại. Ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của
hương đồng gió nội này cộng với một tấm lòng thiết tha hiếm có đã tạo nên những
trang viết sâu sắc, cảm động nhất của ông. Con người có một đời văn hóa khá dài
ấy (trên năm mươi năm) không hiểu kĩ tính thế nào mới trình làng vẻn vẹn có hai
tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Nhưng nghệ
thuật không quen đo đếm ở số lượng. Chỉ một truyện như Vợ nhặt (rút từ tập Con
chó xấu xí) - vốn được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân - cũng có
thể là niềm mơ ước của nhiều người cầm bút. Thiên truyện có một quá trình sáng
tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết
dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, do đơn đặt hàng của báo
Văn nghệ, Kim Lân mới viết lại. Riêng điều đó thôi đã thấy Vợ nhặt mang dấu ấn
của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về
nghệ thuật.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm
nhân đạo sâu sắc của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của
người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ
nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu
thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về
cái đói.
Chỉ mấy chữ "Cái đói đã tràn đến..." đủ gợi lên
hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét
đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim
Lân, hiểm hoạ ấy "tràn đến", tức là mạnh như thác dữ.
Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại
hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người
năm đói "khuôn mặt hốc hác u tối", nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần
ông so sánh người với ma: "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái
Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma", và "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng
ma". Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời
ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ
mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của
âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng
quạ "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây của xác người"
càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ
diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào
đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn
bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân
hôn... Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến
đáy, tạo cho thiên truyện một cái "phông" đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm,
tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.
Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một
bản cáo trạng trong Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong
bóng tối của hoàn cảnh Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người.
Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của
tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết,
cảm động.
Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ
tài. Song nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc
lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay động
người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện.
Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo.
Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả
lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:"nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt
vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi
cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một
con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát
bánh đúc ngoài chợ - đúng là "nhặt" được vợ như tôi nói trong truyện".
Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống
truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động "nhặt" kia là
Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy
được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng
loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ - mẹ Tràng và chính bản thân Tràng
nữa: "đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ
rồi đấy ư?". Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người:
trạng thái chông chênh khó nói - cái gì cũng chập chờn, như có, như không. Đây
là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng
này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của
anh châm ngòi pháo. Có lửa tốt, châm đúng ngòi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc
thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện
nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử
dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi
của đời thực khiến mỗi câu chữ như được "bứng" ra từ chính cái chất
liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực
tâm lí. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc
khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai
trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình
thế như nhau, song không ai giống ai.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng
trai thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất
đỗi ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng
lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế,
bây giờ ngòi bút trữ tình của ông cũng sao mà say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải
đứng giữa cái say/tỉnh ấy mới "cảm thụ" tới tận đáy cuộc đời, mới tạo
ra được những áng "thần bút" như văn Kim Lân trong "Vợ nhặt".
Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu
hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị nhưng
lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki từng
mơ ước: "Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn
phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối".
Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế:
"Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn
đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm
che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong
lòng". Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều
này thì anh Tràng của Kim Lân may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm
gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã
hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắc của Kim Lân: "Hắn xăm xăm chạy
ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà".
So với cái dáng "ngật ngưỡng" mở đầu tác phẩm, hành động "xăm
xăm" này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả
số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang
yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt
vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: "Bây giờ hắn mới
thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này".
Tràng thật sự "phục sinh tâm hồn" đó là giá trị lớn lao của hạnh
phúc.
Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan
trọng của Kim Lân mà nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện "Trong
óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Một câu kết
như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện.
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất
lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây
là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 - 1945 không nhìn thấy
được. Số phận con người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn
học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con
người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật
Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng
đứng phù hợp với một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm
lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu
riêng của người già từng trải và nhân hậu.
Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng.
Anh con trai ngỡ ngàng trước một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái
dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện
tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những
câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào
mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay,
thế là thế nào nhỉ?". Trái tim người mẹ có con trai vốn rất nhạy cảm về điều
này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một
chút quá đà, một chút "kịch" trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà
văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính
là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.
Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ,
sự vận động tâm lý phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu
nín lặng". Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn
lộn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: "... chúng nó có
nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ
"chúng nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong
chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự
trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác
hẳn con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần
phơi phới.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng
thái tâm lí triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến
bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời
của mình, nghĩ đến tương lai của con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu
thương trong một câu nói giản dị:"chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá..." Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên.
Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ... nồi cháo
cám. Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - Bà lão múc ra một bát - chè khoán
đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ một cách đặc
biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm
về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt
ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người:
trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con
người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa
và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn
cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám
"đắng chát và nghẹn bứ".
Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những
trạng thái tâm lí khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết
vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái
thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.
Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân
văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai
Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: "Hãy biết sống cả
những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa". Vợ nhặt là bài ca về
tình người ở những người nghèo khổ đã "biết sống" như con người ngay
giữa thời túng đói quay quắt.
Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên
truyện ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất
là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp
dẫn.
Nhận xét
Đăng nhận xét